Variable Length Subnet Masking (VLSM) tương đương với việc chia subnet (mạng con). Điều đó có nghĩa là VLSM cho phép các kỹ sư mạng phân chia một không gian địa chỉ IP thành một hệ thống các subnet có kích thước không giống nhau, giúp tạo ra những subnet với số lượng host rất khác nhau, mà không làm lãng phí số lượng lớn địa chỉ IP.
Để đơn giản hóa hơn nữa, VLSM là phân chia địa chỉ IP thành các mạng con (ở nhiều cấp độ) và phân bổ nó theo nhu cầu cá nhân trên mạng. VLSM cũng có thể được gọi là cấp địa chỉ IP không phân lớp. Việc cấp địa chỉ IP phân lớp theo quy tắc chung đã được chứng minh là gây lãng phí địa chỉ IP.
Trước khi bạn tìm hiểu về VLSM, bạn phải rất quen thuộc với cấu trúc địa chỉ IP.
Một subnet mask xác định kích thước của subnet (số lượng địa chỉ host trong subnet). Fixed-Length Subnet Masking (FLSM) tạo các subnet có cùng kích thước. Nhưng trong một số trường hợp, subnet sẽ có quá nhiều hoặc ít host. FLSM dẫn đến kết quả một số subnet có nhiều địa chỉ “orphaned” trong khi nhiều subnet lại sở hữu số lượng host quá lớn, không phù hợp. Khi VLSM được kích hoạt, một subnet lớn có thể được chia thành một tập hợp các subnet nhỏ hơn, có thể được sử dụng để xử lý các nhóm host nhỏ hơn.
Cách tốt nhất là bạn nên tìm hiểu làm thế nào để phân chia địa chỉ IP thông qua các ví dụ.
Chẳng hạn, hãy xem xét một không gian địa chỉ Lớp C truyền thống như 192.168.1.0 và một tổ chức có 4 nhóm máy tính: Trung tâm dữ liệu với 75 host; trung tâm liên lạc với 50 host; các tầng hoạt động với 25 host và tầng điều hành với 20 host.
Theo cách phân chia cố định, việc chia 255 địa chỉ host có sẵn thành 4 subnet sẽ chỉ hỗ trợ 62 host trên mỗi subnet, không đáp ứng đủ nhu cầu của trung tâm dữ liệu, nhưng lại dư ra mức cần có cho các tầng hoạt động và điều hành. Sử dụng VLSM, không gian trước tiên được chia thành 2 phần, với mỗi subnet có thể xử lý 126 host.
Một subnet bao gồm trung tâm dữ liệu. Subnet còn lại được chia làm hai, cung cấp hai mạng con cho subnet, với 62 host. Một cái bao gồm trung tâm liên lạc, cái còn lại được chia làm làm hai lần một nữa, tạo ra hai subnet nhỏ hơn nữa với 30 host, để bao quát nhu cầu của các tầng hoạt động và điều hành.
Để sử dụng VLSM, quản trị viên mạng phải sử dụng giao thức định tuyến hỗ trợ nó, chẳng hạn như Routing Information Protocol v2 (RIPv2), Open Shortest Path First (OSPF), Intermediate System-to-Intermediate System (IS-IS), Enhanced Interior Gateway Routing Protocol (EIGRP) và Border Gateway Protocol (BGP).
Tóm tắt về việc triển khai Variable Length Subnet Mask:
VLSM có khái niệm và mục đích tương tự với Classless Inter Domain Routing (CIDR), cho phép một domain Internet duy nhất có một không gian địa chỉ không phù hợp với các lớp địa chỉ truyền thống. VLSM ban đầu được định nghĩa trong IETF RFC 1812.
Nguồn tin: Sưu tầm: Internet
Ý kiến bạn đọc